CỦ ẤU
Tên khác: ấu trụi, ấu nước, kỵ thực, năng thực(Trung Quốc) macre, krechap ( Campuchia)
Tên khoa học: Trapa bicornis L- Hydrocaryaceae
Mô tả cây: Cây sống dưới nước; thân ngắn, có lông. Có hai thứ lá: Lá nổi có phao ở cuống, hình quả trám, mép trên có răng cưa, dài 4-5cm, rộng 6-7cm, cuống dài 6-15cm, giữa có phao; lá chìm thì phiến lá giảm, phiến xẻ lông chim nhưng rất nhỏ nên trông chỉ còn có các đường gân. Hoa trắng mọc đơn độc hay ở kẽ lá; 4 lá đài, 4 cánh hoa, 4 nhị, bầu trung 2 ô, mỗi ô chứa một noãn. Quả thường gọi là “củ” có hai sừng, quả cao 35mm, rộng 5cm, sừng dài 2cm, đầu sừng hình mũi tên, sừng do các lá đài phát triển thành. Trong quả chứa một hạt ăn được.
Phân bố, thu hái và chế biến.:Cây củ ấu được trồng ở các ao đầm khắp nơi trong nước ta. Trồng bằng hạt hay bằng chồi. Mùa hoa ( ở miền Bắc) vào các tháng 5-6; mùa quả vào các tháng 7-9. Quả cũng để ăn, vỏ quả và toàn cây dùng làm thuốc.Dung tươi hay phơi hoặc sấy khô.
Thành phần hóa học:Trong hạt ấu có tinh bột chừng 49%, và chừng 10,3% protit. Các chất khác chưa thấy nghiên cứu.
Công dụng và liều dùng:Củ ấu chủ yếu được nhân dân dùng luộc ăn hoặc chế biến thành bột trộn với mật hay đường làm bánh. Quả sao cháy dung chữa Nhức đầu, choáng váng và cảm sốt. Ngày dùng 3-4 quả dưới dạng thuốc sắc. Vỏ quả sao cho thơm, sắc uống chữa sốt chữa mệt nhọc khi bị sốt rét, còn dùng chưã loét dạ dày, loét cổ tử cung. Toàn cây chữa trẻ con sài đầu, giải độc rượu, làm cho sáng mắt. Ngày dùng từ 10-16g dưới dạng thuốc sắc. Dùng ngoài không kể liều lượng.