THẠCH SÙNG
Còn gọi là mối rách, thủ cung, thiên long, bích cung, hát hổ, bích hổ.
Tên khoa học Hemidactylus frenatus schleget.
Thuộc họ Tăc kè Gekkonidae.
Vì con thạch sùng hay ăn những con nhện, con muỗi đậu ở tường cho nên có tên là bích hổ.
Mô tả: thạch sùng hay ăn những con nhện, con muỗi đâu ở tường và trần nhà. Thông thường nhất có con thạch sùng Hemidactylus frenatus schlegel. Con này toàn thân dài chừng 8-12cm, trông giống con tắc kè hay con thằn lằn nhưng nhỏ hơn, mắt dọc, lưỡi dài hay thè ra khỏi miệng để bắt những con sâu bọ như ruồi, muỗi nhện mà ăn. Thân nhẵn hay hơi có vẩy rất nhỏ, lưng màu tro hay tro vàng, bụng màu trắng 4 chân có màng dính để bám chắc trên tường mà đi, đuôi dài có thể đứt rồi lại mọc lại sau một thời gian.
Phân bố: con thạch sùng sống hoang khắp nơi ở những vùng nhiệt đới, miền nam Trung Quốc cũng có và cũng được dùng làm thuốc.
Dùng toàn con, cả ruột, chú ý bảo vệ lấy đuôi.
Nếu bảo quản, cần giữ nơi thật khô ráo vì rất dễ sinh sâu mọt, nên để trong hộp kín có đựng vôi sống, khi vôi tả rồi lại thay vôi khác.
Công dụng: Thạch sùng còn là một vị thuốc dùng trong nhân dân. Tính chất ghi trong sách cổ như sau vị mặn, tính hàn, hơi có độc, vào 2 kinh tâm và can. Có tác dụng trừ phong, chữa đau các khớp xương, trúng phong, trị cam lỵ trẻ con tiêu hòn cục,kinh giản, tràng nhạc, rắn rết cắn.
Liều dùng hằng ngày, mỗi ngày 1-2 con