NGÔ CÔNG
A. Nguồn gốc: Ta dùng con rết lớn, nhiều chân, thân dẹt, dài 7-13cm, thường gồm chừng 20 đốt, mỗi đốt có một đôi chân. Ðốt cuối cùng 2 chân biến thành như hai đuôi. Ðầu rết có hai râu dài, răng nhọn sắc, cắn đau và có chất độc, vì vậy khi bắt cần chú ý. Rết đẻ trứng vào tháng 4-5, mỗi con đẻ chừng 20-30 trứng, sau ít lâu nở thành rết con, lúc đầu có màu trắng, sau lột xác thành rết lớn màu nâu đỏ.
Rết sống hoang ở dưới những khúc gỗ mục, hòn đá, mái nhà mục nát. Hiện nhân dân ta chỉ bắt những con sống hoang. Tại Trung Quốc, do nhu cầu lớn, người ta đã nuôi rết để dùng trong nước và xuất khẩu. Triều Tiên cũng có nuôi dùng và xuất khẩu rết. Chọn những con to béo là tốt.
B. Công dụng và liều dùng: Tính vị theo Ðông y: Vị cay, tính ôn, có độc, vào kinh can. Tác dụng khử phong, trấn kinh giản, giải nọc độc của rắn. Dùng chữa hàn nhiệt tích tụ trong bụng, trụy thai, trừ ác huyết, trị sang nhọt. Tại một đơn vị quân y (1959) có báo cáo dùng rượu rết bôi lên các mụn nhọt đau nhức rất chóng khỏi (Hội nghị dược chính quân y năm 1960).
Theo các tài liệu cổ và thực tế sử dụng trong nhân dân con rết dùng chữa các bệnh sau đây:
1. Chữa sang Trĩi đau nhức: Rết bỏ đầu, chân, sấy khô, tán nhỏ, hòa ít long não, thêm ít nước hay rượu bôi lên.
2. Kinh nghiệm của quân y: Rượu rết (cả con cho vào rượu 90o) bôi lên mụn nhọt.
3. Bắt 6 con rết cho vào lọ, đổ dầu vừng vào ngâm vài tháng. Lấy bông thấm thuốc này bôi lên các mụn nhọt, chỗ bị sâu, trùng độc cắn sẽ hết đau.
4. Rết sấy khô, bỏ đầu và chân, tán nhỏ, trộn với lượng tương đương bột cam thảo và thêm nước hồ làm thành viên.
Ngày uống 0,5g viên chia làm 3 lần, dùng chữa tê liệt thần kinh mặt, đau nhức, tê thấp, trẻ con cấm khẩu không bú được.
- Cần chú ý nghiên cứu thêm.